Sức mạnh tàu sân bay hiện có của các nước


BEE - Sở hữu tàu sân bay, những căn cứ không quân trên biển, trung tâm của mỗi hạm đội đã là khó, chế tạo chúng càng khó hơn.

Tàu sân bay Garibaldi, Italia

Tàu sân bay Garibaldi dài 180 m, rộng 23,8 m, mớn nước 6,7 m, lượng choán nước chuẩn 10.100 tấn – tối đa 13.370 tấn, thiết bị động cơ là 4 tuabin khí LM-2500, tổng công suất 80.000 mã lực, 2 chân vịt, tốc độ tối đa 30 hải lý/giờ, khả năng chạy liên tục 7.000 hải lý với vận tốc 20 hải lý/giờ. Đường băng thẳng, dài 173,8 m, rộng 30,4 m, đầu trước đường băng vát lên 6,5 độ, có thể làm nơi đỗ cho 6 máy bay cất/hạ cánh thẳng đứng AV-8B Harrier II hoặc 6 trực thăng SH-3D Sea King.

Kho chứa máy bay được xây dựng ở dưới sàn tàu, dài 110 m, rộng 15 m, cao 6 m, tổng diện tích 1.650 m2, có thể đậu 12 chiếc AV-8B hoặc 12 chiếc Neptune. Cấu trúc tầng trên của mạn tàu phải ở cả trước và sau đều có 1 thang máy, dài 18 m, rộng 10 m, tải trọng 15 tấn. Biên chế cả tàu 825 người, trong đó có 550 thủy thủ, 230 nhân viên hàng không, còn lại là nhân viên Bộ Tư lệnh. Tiêu chuẩn máy bay mang theo là 8 chiếc AV-8B và 8 chiếc Sea King, trong trường hợp đặc biệt cũng có thể tải được 16 chiếc AV-8B hoặc 18 chiếc Neptune.

Tàu sân bay Garibaldi được gọi là tàu sân bay có trọng tải nhỏ nhất trên thế giới.

Tàu sân bay Garibaldi là tàu sân bay hạng nhẹ có tính đại diện, xuất hiện sau tàu lớp Invincible, nó là tàu hạng nhẹ hơn so với tàu Invincible, lượng choán nước chỉ bằng 2/3 tàu lớp Invincible, được gọi là tàu sân bay có trọng tải nhỏ nhất trên thế giới. Bề ngoài của nó rất tương đồng với tàu lớp Invincible, cũng được thiết kế đường băng thẳng, phần đầu đường băng chếch 6,5 độ. Trải qua thiết kế cẩn thận, trọng tải tuy nhỏ, nhưng lại mang được 16 – 18 máy bay.

Vũ khí trang bị trên tàu đầy đủ, có thể tấn công, phòng thủ toàn diện như chống hạm, phòng không và chống tàu ngầm, vừa có thể là tàu chỉ huy của hạm đội tàu sân bay, vừa có thể hoạt động độc lập. Động cơ sử dụng tua-bin chạy ga có thể tích nhỏ, trọng lượng nhẹ, khởi động nhanh, điều khiển linh hoạt, làm cho tốc độ đạt 30 hải lý/giờ, hơn nữa có tính cơ động mạnh, từ trạng thái tĩnh đến trạng thái hết công suất chỉ cần 3 phút.

Nhiệm vụ chính của tàu là thực hiện tuần tra cảnh giới ở Địa Trung Hải, chốt chặn và bảo vệ đường hàng hải Eo biển Gibraltar, độc lập hoặc dẫn đầu hạm đội thực hiện nhiệm vụ chống tàu ngầm, phòng không và chống hạm, yểm trợ và chi viện cho tấn công đổ bộ, hộ tống cho đội tàu vận tải, đảm bảo tự do lưu thông hàng hải…

Năm 1993, tàu này bắt đầu mang theo máy bay cánh cố định, từ đó đã nâng cao rất lớn khả năng tác chiến kiểm soát bầu trời, kiểm soát biển của con tàu này. Hiện nay, Italia đã có kế hoạch chế tạo một tàu sân bay mới tương tự tàu Hoàng tử Asturias của Tây Ban Nha, lượng choán nước tối đa 20.100 tấn, máy bay mang theo là 12 chiếc AV-8B, 4 chiếc trực thăng chống tàu ngầm EH101 và 3 chiếc trực thăng cảnh báo sớm EH101.

Tàu sân bay Cavour, Italia

Tàu sân bay Cavour có lượng choán nước là 27.100 tấn, do xưởng đóng tàu Fenkandini của Italia chế tạo, được gọi là tàu chiến động cơ phi hạt nhân mạnh nhất thế giới. Hợp đồng chế tạo tàu sân bay Cavour được ký tháng 11/2000, khởi công vào tháng 6/2001, hạ thủy và trang bị vào tháng 6/2004, bàn giao cho hải quân Italia năm 2008.

Chiều dài: 244 m. Chiều rộng: 39 m. Mớn nước: 8,7 m. Đường băng: 186 m. Lượng choán nước: chuẩn 21.160 tấn, tối đa 27.100 tấn. Động cơ: 88.000 mã lực. Khả năng chạy liên tục: 7000 hải lý, vận tốc 18 hải lý/giờ. Khả năng duy trì: > 18 ngày. Hệ thống động cơ: Hệ thống đẩy COGAG, 4 tuabin khí General Electric/Avio LM2500, 2 chân vịt. Tốc độ: 28 hải lý/giờ.

Tàu sân bay Cavour do Italia chế tạo, được gọi là tàu chiến động cơ phi hạt nhân mạnh nhất thế giới.

Hệ thống vũ khí: 2 khẩu pháo bắn nhanh 76 mm OTO Breda 76/62 SR, 3 khẩu pháo bắn nhanh 25 mm Oto Breda Oerlikon KBA, 4 hệ thống phóng thẳng 8-cell SYLVER A43 (trang bị tên lửa hạm đối không Aster-15).

Máy bay: 12 - 16 chiếc máy bay chiến đấu AV-8B Harrier hoặc máy bay chiến đấu Lockheed Martin F-35B, 3 máy bay cảnh báo sớm EH-101 Mk.112 AEW/HEW, 4 - 6 máy bay trực thăng chống tàu ngầm EH-101, NH-90 hoặc SH -3D; hoặc 30 máy bay trực thăng.

Tàu sân bay Illustrious, Anh

Tàu sân bay hạng nhẹ Illustrious là tàu sân bay lớp Invincible thứ hai của Anh, biên chế tháng 6/1982. Tàu dài 206,6 m, rộng 27,5 m, mớn nước 8,0 m, lượng choán nước chuẩn 16.256 tấn, tốc độ 28 hải lý/giờ. Tàu này thực tế có khả năng mang 20 máy bay (10 máy bay cất/hạ cánh thẳng Seagull, 10 trực thăng Sea King). Vũ khí chính trên tàu là 1 thiết bị tên lửa đối không See Dart, 2 pháo phòng thủ gần 20 mm, 2 khẩu pháo 20 mm.

Tàu sân bay hạng nhẹ Illustrious là tàu sân bay lớp Invincible thứ hai của Anh.

-Chiều dài: 206,6 m. Chiều rộng: 27,7 m.
- Lượng choán nước: chuẩn 16.000 tấn; tối đa 20.300 tấn.
- Động cơ chính: 4 tuabin khí Olin Phillips TM-3B.
- Tổng công suất: 112.000 mã lực, 2 chân vịt.
- Tốc độ tối đa: 28 hải lý/giờ.
- Khả năng chạy liên tục: 7000 hải lý, vận tốc 18 hải lý/giờ.
- Biên chế: 1.051 người, trong đó 685 thủy thủ, 366 nhân viên hàng không.
- Máy bay mang theo chuẩn là 8 máy bay chiến đấu cất/hạ cánh thẳng Sea Harrier và 12 máy bay trực thăng Sea King.


Tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov, Nga

Tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov là tàu sân bay đầu tiên mang theo máy bay cánh cố định do Nga (Liên Xô cũ) sản xuất. Tàu này từng 3 lần đổi tên, chính thức đi vào hoạt động năm 1991. Hệ thống vũ khí trang bị trên tàu đầy đủ, uy lực mạnh. Lượng choán nước tối đa 58.500 tấn, chiều dài 304,5 m, chiều rộng 37 m, đường băng rộng 70 m, mớn nước 10,5 m. Tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov hiện là tàu sân bay duy nhất của hải quân Nga, sẽ tiến hành cải tiến hiện đại hóa toàn diện vào năm 2012 và hoàn thành vào năm 2017.

Tàu Đô đốc Kuznetsov được trang bị hỏa lực phòng không mạnh. Chủ lực là 4 tên lửa phòng không phóng thẳng SA-N-9, với 192 đầu đạn, tầm bắn là 15.000 m; ngoài ra còn có 8 hệ thống phòng thủ gần Cads-N-1, 2 pháo 30mm6, 8 tên lửa tầm ngắn SA-N-11, tầm phóng của pháo là 2.500 m, tầm bắn tên lửa là 8.000 m; hơn nữa còn có 4 pháo 30 mm 6 nòng AK-630, tầm bắn 2.500 m, tốc độ bắn 3000 phát/phút.

Tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov là tàu sân bay đầu tiên mang theo máy bay cánh cố định do Nga (Liên Xô cũ) sản xuất.

Điểm đặc biệt của tàu Đô đốc Kuznetsov ở chỗ, nó là một “khối hỗn hợp” tuyệt vời: Nó vừa có có 2 đoạn đường băng xiên thẳng riêng có của tàu sân bay kiểu hạm đội, vừa có đường băng cất cánh kiểu ski jump cong 12 độ thông dụng của tàu sân bay hạng nhẹ; không có máy phóng, nhưng có thể bảo đảm cất/hạ cánh cho máy bay chiến đấu cánh cố định hạng nặng.

Điều kỳ diệu này nằm ở sự kết hợp giữa phương thức cất cánh kiểu ski jump (do Anh sáng tạo) với máy bay chiến đấu Su-27 có tính năng khí động học nổi trội. Trong điều kiện hy sinh tính năng tác chiến của máy bay, cuối cùng Nga đã sở hữu “tàu sân bay cỡ lớn”, nhưng họ tự xưng là “tàu tuần dương mang theo máy bay”.

Sau khi tàu Đô đốc Kuznetsov đi vào hoạt động, hải quân thế giới đã xuất hiện phương thức cất cánh mới trên tàu sân bay, đó là cất cánh kiểu ski jump, hạ cánh nhờ cáp hãm đà. Trong điều kiện thông thường, máy bay được sử dụng là: 20 máy bay chiến đấu Su-33, 15 máy bay trực thăng chống tàu ngầm Ka-27, 4 máy bay huấn luyện Su-25UGT và 2 máy bay trực thăng cảnh báo sớm Ka-29RLD.

Tàu sân bay Charles de Gaulle, Pháp

Tàu sân bay hạt nhân Charles De Gaulle được Bộ trưởng Quốc phòng Pháp ký lệnh chế tạo vào tháng 2/1986. Tháng 1/1987, Charles de Gaulle R91 cuối cùng đã hoàn thành bản thiết kế tại nhà máy đóng tàu Brest. Tháng 11/1987 bắt đầu cắt tấm thép đầu tiên, tháng 4/1989 bắt đầu lắp ráp tại cảng nhà máy đóng tàu Brest, tháng 7/1994 hạ thủy, tháng 9/2000 chính thức hoạt động. Tàu sân bay Charles de Gaulle không chỉ là tàu sân bay chạy bằng động cơ hạt nhân đầu tiên của Hải quân Pháp, mà nó còn là tàu sân bay hạt nhân duy nhất không phải của hải quân Mỹ.

Tàu sân bay Charles de Gaulle ban đầu có ý định trang bị vũ khí là tên lửa hành trình Tomahawk của Mỹ, nhưng Mỹ không bán cho Pháp. Pháp đành phải hợp tác với Anh phát triển tên lửa Storm Shadow. Tàu Charles de Gaulle hoạt động không lâu thì tên lửa hành trình Storm Shadow được phát triển thành công. Người Pháp vô cùng mừng rỡ, đã lập tức trang bị tên lửa Storm Shadow cho tàu Charles de Gaulle. Storm Shadow là loại tên lửa hành trình tàng hình đầu tiên trên thế giới.

Tàu sân bay Charles de Gaulle không chỉ là tàu sân bay chạy bằng động cơ hạt nhân đầu tiên của Hải quân Pháp, mà nó còn là tàu sân bay hạt nhân duy nhất không phải của hải quân Mỹ.

Sử dụng hệ thống kiểm soát hỏa lực mới là một cải tiến quan trọng khác của tàu sân bay Charles de Gaulle, bao gồm hệ thống SAAM-FR và hệ thống SAAM-IT. Hệ thống SAAM-FR được hợp thành bởi một bộ hệ thống kiểm soát hỏa lực (gồm radar Arabal tích hợp), thiết bị phóng thẳng SYLVER và tên lửa Aster 15. Còn hệ thống SAAM-IT được hợp thành bởi một bộ hệ thống kiểm soát hỏa lực (gồm radar EMPAR tích hợp), thiết bị phóng thẳng SYLVER và tên lửa Aster 15. Hệ thống kiểm soát hỏa lực mới có thể dùng cho thực hiện nhiều nhiệm vụ, đối phó với các mối đe dọa trong tương lai.

Máy bay chiến đấu Rafale trang bị cho tàu sân bay Charles de Gaulle cũng đã được nâng cấp về công nghệ, tính năng của nó đã được phát triển rất lớn, không những có khả năng tác chiến trên không rất mạnh, mà còn có khả năng tấn công đối đất nhất định. Khi sử dụng trên mặt biển, hệ thống theo dõi địa hình đã có thể bảo đảm cho Rafale bay thấp với độ cao chỉ là 30,5 m. Rafale F3 được đưa vào hoạt động trước năm 2007 và là loại máy bay chiến đấu đa năng toàn diện.

Tàu sân bay NAe Sao Paulo, Brazil

Tàu sân bay NAe São Paulo là tàu Fock được Brazil mua từ Pháp năm 2000, là tàu sân bay duy nhất của hải quân Brazil hiện nay. Tàu này vốn là tàu Fock, thuộc lớp Clemenceau được biên chế cho hải quân Pháp năm 1963, lượng choán nước là 32.780 tấn, dài 265 m, rộng 31,7 m, có thể mang theo 37 máy bay chiến đấu cánh cố định, 2 máy bay trực thăng. Tàu này có thể mang theo 1.300 thủy thủ.

Tàu sân bay NAe Sao Paulo là tàu Fock được Brazil mua từ Pháp năm 2000. Đây là tàu sân bay duy nhất của hải quân Brazil hiện nay.

- Lượng choán nước tối đa: 32.780 tấn. Chiều dài: 265 m.Chiều rộng: 31,7 m.Đường băng rộng nhất: 51,2 m.
- Mớn nước: 8,6 m. Thiết bị động cơ: Động cơ thông thường, 2 tua bin hơi, 2 chân vịt. Công suất: 92,65 MW (126.000 mã lực).
- Tốc độ: 32 hải lý/giờ. Khả năng chạy liên tục: 7.500 hải lý, vận tốc 18 hải lý/giờ.
- Vũ khí trang bị chính: 2 hệ thống tên lửa phòng không Sidewinder, 2 hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn West Wind, 4 pháo nòng đơn 100 mm.
- Máy bay: 37 máy bay cánh cố định, 2 máy bay trực thăng. Biên chế: 1.017 thủy thủ, 672 nhân viên hàng không.


Tàu sân bay Virrat, Ấn Độ

Tàu sân bay Virrat nguyên là tàu HMS Hermes của hải quân Hoàng gia Anh. Trong hải chiến quần đảo Malvinas giữa Anh và Argentina, tàu này đã đóng vai trò không nhỏ khi tham chiến với tư cách là tàu chỉ huy của hạm đội đặc nhiệm Anh.

Tàu sân bay Virrat nguyên là tàu HMS Hermes của hải quân Hoàng gia Anh.

Tháng 4/1986, hải quân Ấn Độ đã mua con tàu này của Anh có giá khá rẻ 25 triệu bảng Anh, sau khi được cải tạo và đại tu đã đổi tên là Virrat; đồng thời còn mua 12 máy bay chiến đấu cất/hạ cánh cự ly ngắn/thẳng đứng Sea Harrier để trang bị cho tàu sân bay.

Tàu có lượng choán nước chuẩn là 23.900 tấn - tối đa 28.700 tấn; chiều dài 226,9 m, chiều rộng 27,4 m, mớn nước 8,7 m; thiết bị động cơ là 2 tua bin khí, công suất tối đa là 76.000 mã lực, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ. Tàu sân bay Virrat đã qua nhiều lần cải tạo, chủ yếu có nhiệm vụ chống tàu ngầm, kiểm soát trên không và chỉ huy.

Tàu sân bay Chakri Naruebet, Thái Lan

Tháng 3/1992, Hải quân Hoàng gia Thái Lan đã ký với Công ty đóng tàu Bazin, Tây Ban Nha, đặt mua một tàu sân bay hạng nhẹ trang bị máy bay trực thăng và máy bay cất/hạ cánh cự ly ngắn thẳng đứng Harrier, do nhà máy đóng tàu Faroe của công ty này chế tạo. Qua chưa đến 4 năm thiết kế và thi công, tháng 1/1996 70% lượng công việc đã hoàn thành, đến ngày 20/1 hạ thủy. Hoàng hậu Sirikit của Thái Lan đã thân chinh đến Tây Ban Nha, cùng với Nữ hoàng Tây Ban Nha là Sofia tổ chức buổi lễ hạ thủy, Tư lệnh hải quân hai nước cũng đã tham gia buổi lễ long trọng này.

Tàu sân bay hạng nhẹ này của hải quân Hoàng gia được quốc vương Thái Lan đặt tên là Chakri Naruebet. Chakri là tên của quốc vương khai quốc của vương triều Bangkok. Đồng thời, công bố số hiệu tàu là 911.

Tàu sân bay hạng nhẹ này của hải quân Hoàng gia được quốc vương Thái Lan đặt tên là Chakri Naruebet. Chakri là tên của quốc vương khai quốc của vương triều Bangkok.

Sau khi hạ thủy, tiến triển của công trình vẫn rất thuận lợi, đến tháng 10, tàu sân bay cơ bản hoàn thành và có thể đi vào giai đoạn thử nghiệm trên biển. Theo đó, hải quân Thái Lan đã cử lực lượng tiếp nhận đến Tây Ban Nha cùng tàu ra biển, trải qua khoảng nửa năm vừa thử nghiệm vừa giao nhận, đến ngày 20/3/1997, tàu này đã được bàn giao cho hải quân Thái Lan.

Từ khi ký hợp đồng cho đến khi bàn giao chỉ có 5 năm, đây là thành tựu đáng tự hào của nhà máy đóng tàu, bởi vì trước đó họ đã mất đến 10 năm để chế tạo tàu sân bay hạng nhẹ Hoàng tử Asturias cho hải quân Tây Ban Nha. Sau khi bàn giao, tàu sân bay rời bến cảng nhà máy đóng tàu, đến căn cứ Rota của hải quân Tây Ban Nha, tiếp tục tiến hành huấn luyện khoảng 4 tháng cho thủy thủ.

Với sự giúp đỡ của hải quân Tây Ban Nha, tiến hành các bài tập huấn luyện gồm cả tác nghiệp bay, để lực lượng tiếp nhận nắm được thao tác kỹ thuật. Đến tháng 8/1997, hải quân Hoàng gia Thái Lan đã đón tàu về nước, đóng tại căn cứ hải quân lớn nhất Thái Lan là Sattahip. Sau đó, Thái Lan đã tự trang bị thêm một số vũ khí, hệ thống tác chiến và các hệ thống điện, nước làm mát, khí nén, điều hòa, những hệ thống đó đã được thiết kế từ trước, chỉ cần lắp đặt là xong. Tàu sân bay đã chính thức được đưa vào sử dụng năm 1998.

Tàu sân bay Hoàng tử Asturias, Tây Ban Nha

Tàu sân bay Hoàng tử Asturias được cải tiến dựa trên thiết kế tàu kiểm soát biển của Mỹ. Nó có thể mang theo máy bay cất/hạ cánh cự ly ngắn thẳng đứng và máy bay trực thăng, là một tàu sân bay hạng nhẹ hiện đại khác của Tây Ban Nha.

Năm 1990, con tàu này được cải tạo một phần, tiến hành cải tiến đối với kiến trúc tầng trên kiểu đảo, làm cho khoang chính được bố trí hợp lý hơn, máy bay trên bãi đỗ được bố trí thiết bị bảo vệ; ngoài ra đã cải tiến điều kiện ở, làm cho tàu có thể tăng thêm 6 sĩ quan và 50 nhân viên kỹ thuật.

Tàu sân bay Hoàng tử Asturias được cải tiến dựa trên thiết kế tàu kiểm soát biển của Mỹ.

Trong năm đầu tiên khởi công tàu này, Mỹ từng cấp vốn vay là 150 triệu USD, chi phí chế tạo ước tính khoảng 275 triệu USD.

- Lượng choán nước tối đa: 17.188 tấn. Chiều dài: 195,9 m. Chiều rộng: 24,3 m.
- Mớn nước: 9,4 m. Thiết bị động cơ: động cơ thông thường, 2 tua bin khí, chân vịt đơn. Công suất: 34,1 MW (46.400 mã lực).
- Tốc độ: 26 hải lý/giờ. Khả năng chạy liên tục: 6.500 hải lý, vận tốc 20 hải lý/giờ.
- Vũ khí trang bị chính: 4 hệ thống vũ khí tác chiến tầm ngắn 20 mm.
- Máy bay: 12 chiếc máy bay cất/hạ cánh cự ly ngắn thẳng đứng (V / STOL), 16 trực thăng.
- Nhân viên: 555 thủy thủ, 208 người gồm chỉ huy và nhân viên hàng không.


Đức Trọng (Theo Tân Hoa Xã)

Nhận bài viết mới qua E-mail:
*Vui lòng click vào Link được gửi vào hộp thư của bạn để xác nhận*

Đăng Nhận xét của bạn!

Bạn có thể để lại nhận xét của mình và tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
» Nội dung nhận xét phải nghiêm túc, không dung tục và không Spam.
» Bạn có thể sử dụng các tài khoản: Google, WordPress, AIM, Liveournal ... để viết nhận xét.
» Nếu không có tài khoản, bạn vẫn có thể viết nhận xét bằng cách chọn hồ sơ là Tên/URL hay Ẩn danh.
Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

 
Đối tác | Phong thuy | Tài Chính - Kế Toán | Truyện Tranh Online | Code1k.com | Movang.info | Quần Áo Rẻ Đẹp | 123 Mua Nhanh | SucManhSEO™ | Dịch Thuật Việt |

Hot Defence | ©2008 - 2010 All Rights Reserved by Khanh Nguyen | Website được xây dựng trên nền Blogspot | Xem tốt nhất trên trình duyệt FireFox.

Xin liên hệ Khanh Nguyen qua số ĐT: 016.93.94.95.96
Lượt khách : xxxxx Lượt truy cập : xxxxx
Đầu trang
Giữa trang
Cuối trang